NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ BÀI HỌC LỚN Ở HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Đọc trong Lễ Dâng hương tưởng niệm 223 năm ngày mất của Hải Thượng Lãn Ông
Rằm tháng giêng Tân Hợi (1791) - Giáp Ngọ (2014), tại Bệnh viện Y học cổ truyền Quảng Nam
Trong
không khí hân hoan, phấn khởi của những ngày đầu năm mới, một mùa xuân nữa đã đến;
sắc xuân tràn ngập khắp mọi mơi, mọi nhà và trong mỗi chúng ta. Hôm nay, rằm tháng
giêng năm Giáp Ngọ (2014), tưởng niệm 223 năm ngày mất của Đại danh y Hải Thượng
Lãn Ông Lê Hữu Trác; ông sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (1720), mất ngày rằm
tháng giêng năm Tân Hợi (1791), thọ 71 tuổi. Chúng ta tập trung về đây thành kính
thắp nén nhang để tưởng nhớ và tri ân công đức to lớn của ông đối với nền y học
nước nhà. Lãn Ông được nhân dân ta suy tôn là Đại y tôn Việt Nam; năm 1970, Tổ
chức Giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hiệp quốc đã chọn kỷ niệm 250 năm
ngày sinh nhật của Lãn Ông để nêu cao tên tuổi và sự nghiệp của ông, là cả một
vinh dự cho Tổ quốc ta đã sản sinh ra một người con ưu tú làm rạng rỡ y giới. Ông
để lại cho hậu thế bộ sách “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển;
trong đó không những chứa đựng nhiều khuôn vàng thước ngọc để chúng ta học tập,
nghiên cứu về lý luận và thực hành YHCT; mà còn chứa đựng những quan điểm lớn,
những bài học lớn làm tấm gương soi không chỉ cho riêng giới y học cổ truyền.
NHỮNG QUAN ĐIỂM LỚN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Tư tưởng và sự nghiệp của Lãn Ông gắn liền với thực tế
xã hội, với những điều kiện đương thời. Lãn Ông là một nhân vật đặc biệt, tất
nhiên có nhiều quan điểm tốt đẹp để lại cho đời sau.
1-Quan điểm
về cuộc sống: Lãn Ông sinh ra và sống
trong một thời đại có tình hình chính trị không ổn định. Tư tưởng sĩ phu hoang
mang, nhiều người không tham gia chính cuộc, rút lui về vùng thôn dã ở ẩn.Trong
cái hoan mang chung của nhà nho, Lãn Ông tìm hướng đi trong dịp dưỡng bệnh tại Rú
Thành, vào hồi hơn 30 tuổi. “Nghề Y thiết thực ích lợi cho mình, giúp đỡ được
mọi người” (Y Huấn). Đó là một hướng đi tích cực đúng đắn, thiết thực, cao quý.
Hướng đi ấy có tính chất lý tưởng hoá bản tính và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của
ông từ đó về sau.
Bản thân ông trước 30 tuổi chưa làm nghề y, cho nên làm
nghề y là hướng mới về sau. Và suốt 40 mươi năm còn lại, ông đã phải nỗ lực rất
nhiều để xây dựng sự nghiệp, có tính tích cực, có ích cho xã hội. Bởi có quan
điểm sống đúng đắn như vậy mà các quan điểm khác về nghề nghiệp, phục vụ cũng đều
có nhiều đặc điểm.
2 - Quan điểm về nghề nghiệp, về ý thức phục vụ: Lãn Ông nhiều lần nhấn mạnh “ Nghề thuốc là nghề
thanh cao, là một nghề có lòng nhân...”. Từ đó mà các mặt đạo đức, trách nhiệm,
động cơ, thái độ, tác phong, nghiệp vụ... của ông đều đạt tới một tầm cao đặc
biệt. Ông nói: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng
người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp
người, làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể công”. Lãn Ông thể hiện rất rõ
tính nhân đạo trong từng khâu của nghiệp vụ: Chuẩn đoán, suy luận, điều trị,
dùng thuốc....
Đối với thầy thuốc “cái bệnh” là đối tượng số 1, tùy
trường hợp mà giải quyết kịp thời và chu đáo. Do xác định được đối tượng số một
đó mà Lãn Ông đặt sang bên những điểm khác như giàu nghèo, quyền uy, định kiến,
sở thích, thuật số....
3 - Quan điểm về trước tác và truyền
thụ: Người viết sách có nhiều động cơ
và thái độ khác nhau. Lãn Ông có quan điểm sống và ý thức phục vụ như trên nên
động cơ và mục đích của ông vẫn đúng. Ông muốn “thâu tóm hàng trăm cuốn sách,
đúc thành một bộ để tiện xem, tiện đọc...” Sách thuốc như rừng, lời bàn lắm
ngả, yêu cầu có một bộ sách tóm gọn là một yêu cầu về học thuật của thời đại.
Sách của ông viết xong đến đâu đã có người chép tay truyền nhau. Với tinh thần
thận trọng, Lãn Ông còn đem hết tâm huyết của mình ra “Vắt hết ruột gan, moi
tận đáy lòng,”, rõ ràng tinh thần trách nhiệm xây dựng học thuật và ý thức phục
vụ của ông thật là triệt để và cao cả. Trong việc truyền thụ nghề nghiệp cho
môn đệ, ông cũng rất chu đáo, ông chủ trương dạy bằng nhiều lối để người học
nắm vững chuyên môn.
4 - Quan điểm về thừa kế và học tập:
Trong thừa kế và học tập Lãn Ông có những đặc điểm sau:
4.1- Ồng nêu cao tinh thần khổ học,
có thể thấy rõ ở một đoạn văn trong quyển Y hải cầu nguyên: “Tìm hiểu sách vở
của khắp các nhà, nghiên cứu ngày đêm, mỗi khi được một câu cách ngôn của hiền
triết xưa ghi lại tại chổ biện luận kỹ càng, thức nhấp luôn suy nghĩ. Phàm
những chân lý ngoài lời nói, phần nhiều nảy ra trong lúc suy tưởng, nhân đó suy
rộng ra, càng ngày càng tinh vi, như chiếc vòng không cùng tận.......”
4.2- Học tập có chọn lọc: Hai chữ “Tâm
lĩnh” trong tên bộ sách cũng nói lên cách học có chọn lọc của ông, ông muốn “chắt
lọc lấy những tinh hoa của các sách, những vốn quý của dân gian về y học để đưa
vào một bộ sách tóm gọn để tiện xem, tiện đọc...”.
4.3 Học tập có sáng tạo: ông nghiên
cứu sách xưa, nhưng có nhiều chỗ ông không rập khuôn hoàn toàn như xưa. Ông đã
có đóng góp những chỗ mới về lý thuyết, về phương thang.
4.4 Học tập có phương pháp: Trong việc học tập cần
phải có đọc rộng, tham khảo nhiều. Khi đã có tư liệu nhiều rồi phải biết sắp
xếp tóm gọn cho hệ thống thì mới tránh được bệnh tản mát, hoặc lộn xộn mâu thuẫn
nhau.
Giữa học và hành, ông khuyên phải có
sự “ biến thông linh hoạt”
4.5 Học tập với tinh thần suy nghĩ độc lập: Ông thừa
kế sách xưa một cách toàn tâm toàn ý. Tuy nhiên, ông vẫn có tinh thần suy nghĩ
độc lập, ông cũng tự hào với những phát kiến độc đáo. Ông không khiêm tốn giả tạo
khi công bố thành quả của sự suy nghĩ độc lập trong học tập của mình và quyết định:
“Tôi thà mắc tội với tiền bối, chứ không phụ cái sở học của mình”, và “...mong
làm sáng tỏ thêm những chỗ văn chưa sáng nghĩa, những phần lý luận trước đây
chưa đầy đủ”, hay như: “...lưu lại một chút khổ tâm của tôi trong việc nghiên
cứu y học”. Điều đó phần nào nói lên lòng quả cảm, đồng thời sự tích cực xây
dựng học thuật của ông, bất chấp những thông tục không cần thiết. Với tinh thần
và phương pháp học tập chịu khó, chọn lọc, sáng tạo và suy nghĩ độc lập như
trên, ông nắm vững học thuật và có sự xây dựng, đóng góp to lớn về các mặt.
5 -Quan điểm về cách đối xử: Trong trước tác Lãn Ông cũng để lại những phong cách
đối xử rất xác đáng, cần thiết cho một người thầy thuốc chân chính.
5.1- Đối với mọi người nói chung: “Đối với
người lớn tuổi thì mình phải kính trọng, người học giỏi coi như bậc thầy, người
kiêu ngạo thì mình nhân nhượng, người kém mình thì diều dắt họ học tập”
5.2- Đối với người bệnh: Ông tận
tình cứu chữa, ông không tin thuyết định mệnh. Ông quan tâm nhiều đến người
nghèo, ông nói: “Nhà giàu không thiếu gì thầy thuốc, còn nhà nghèo khó lòng
rước được thầy giỏi, vậy cần lưu tâm cứu chữa cho những người này thì họ mới
sống được”. Đối với phụ
nữ, ông giữ nghiêm túc triệt để; ông khuyên: “Khi xem bệnh cho đàn bà, con gái,
đàn bà goá, ni cô cần phải có người nhà ở bên cạnh mới bước vào phòng mà xem
bệnh, để tránh hết sự nghi ngờ. Dù cho đến hạng người buôn son bán phấn cũng
vậy, cũng phải đúng đắn, coi họ như con nhà tử tế, chớ nên đùa cợt mà mang
tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm”.
5.3- Đối với
việc nhận quà cáp: Thông thường ai giúp mình một việc gì, thì mình cảm ơn người
đó. Nhân dân ta vốn có tính thuần hậu, không khi nào quên ơn người đã giúp mình;
muốn bày tỏ lòng chịu ơn không thể nào không trả ơn bằng lời nói, bằng vật chất,
hoặc bằng việc làm; điều đó được coi như là hoàn toàn chính đáng và hợp tình, hợp
lý, mà người bệnh không làm, luôn tự thấy băn khoăn. Nhưng điều đáng chê trách
là đôi khi món quà quá đáng đối với sự việc, hoặc quá lớn đối với khả năng của
người bệnh, hoặc kèm theo những động cơ không đúng, hoặc đem lại những hậu quả
không trong sạch, lành mạnh. Những món quà không chính đáng có thể hạ thấp nhân
phẩm thầy thuốc, biến thầy thuốc thành kẻ phụ thuộc, người nô lệ của vật chất
hoặc của quyền uy.
Những điều trên đây rút ra từ trước tác
của Lãn Ông có thể gọi là mẫu mực và quý báu.
NHỮNG BÀI HỌC LỚN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Ở Lãn Ông, nhiều điểm cần được nghiên
cứu sâu sắc và học tập nghiêm túc. Nhưng ở đây hai điểm lớn bao quát cần được nêu
trên hết và trước hết là bài học lớn về Y đức và Y thuật.
1- BÀI HỌC VỀ Y ĐỨC
Mở bộ sách Y tông tâm lĩnh đã thấy bài
“Y huấn cách ngôn” ở phần đầu đủ hiểu ông trọng
y đức đến mức rất cao. Trong các quyển sau, nhất là trong quyển “Y âm án”
ông nhấn mạnh nhiều lần “Nghề y là một nhân thuật”. Theo ông, “nhân” là một đức
tính cơ bản của người làm nghề y. Đức tính cơ bản ấy nên là điều kiện tiên quyết
để vào nghề y: nếu không có lòng nhân, không biết quan tâm đến người khác thì nên
đi kiếm sống bằng nghề khác ít đòi hỏi nhân đạo hơn. Ông nói: “tôi thường thấm
thía rằng: thầy thuốc có nhiệm vụ bảo vệ mạng sống người ta; sự sống chết, điều
họa phúc đều ở tay mình xoay chuyển, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành
động không chu đáo, tâm hồn không khoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám
theo đòi bắt chước nghề y”
Ông khẳng định nghề y liên quan chặt
chẽ đến đức độ của bản thân và của con cháu lâu dài. Qua nghề y, người ta có thể
bồi đắp chữ “đức” được cao dầy, nếu người đó thực sự giúp ích cho người bệnh.
Nhưng nếu người đó lợi dụng nghề y để hữu ý hoặc vô ý làm những điều có hại cho
người khác thì cũng dễ mắc những điểm “thất đức” không nhỏ. Ông phàn nàn: “Than
ôi đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế
thì người sống trách móc, người chết oán hờn, không thể tha thứ được”. Có thể nói:
“không có nghề nào nhân đạo bằng nghề y cứu sống người”, cũng có thể nói: “không
có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”.
2 – BÀI HỌC VỀ Y THUẬT
Từ xưa đến nay y học cổ truyền vẫn giữ được những lý
luận cơ bản, những khuôn phép chung, không có tình trạng học thuyết mới đảo lộn
học thuyết cũ. Từ sau công nguyên đến nay, một số y gia ở từng thời đại, ở từng
địa phương đã có phần đóng góp về kinh nghiệm y, dược, về luận thuyết này khác để
làm sáng tỏ thêm nội dung của y thuật. Nhưng trong những phần chung, có thể thấy
vài điểm đặc thù trong lập luận và nghiệp vụ: Ông làm thuốc theo lối “vương đạo”,
và thiên về “thuỷ hoả”.
Về thuyết thuỷ hoả, ông dành riêng một quyển chuyên luận
gọi là “Huyền tẫn phát vi”. Chỉ riêng trong quyển này cũng đã nhiều lần ông nhấn
mạnh tầm quan trọng của Thuỷ- Hoả. Học thuyết Thuỷ- Hoả của ông đã được nhiều
người áp dụng.
Về loại bệnh ngoại cảm, ông cũng có những
lập luận độc đáo. Ông đã sáng chế ra ba bài giải biểu.
Dù bệnh về ngoại cảm cũng như bệnh nội
thương, ông đều chú ý đến bồi bổ chính khí. Chú trọng mặt bồi bổ trong khi chữa
bệnh là đường lối của phái “Vương đạo”, khác với đường lối của phái “Bá đạo”,
thiên về phép công tả. Trong đường lối chữa bệnh “ Vương đạo” trong bệnh nội thương,
cả trong bệnh ngoại cảm ông vẫn trọng dụng Thuỷ- Hoả. Đó là hai đặc điểm nổi bật
được Lãn Ông chủ trương và trình bày.
Tuy nhiên, những đặc điểm nói trên, cũng
cần chú ý đến những điểm do điều kiện lịch sử hạn chế của thời đại ông sống như:
Thầy, bạn, sách, trình độ khoa học đương thời... Qua hơn hai trăm năm, đến nay
nhiều luận thuyết được phát huy, phát triển, một số quan điểm được phát minh,
đề cập, nhiều vấn đề được nghiên cứu thêm, nhiều
phương tiện, phương pháp được áp dụng rộng rãi. Do vậy, ở thời điểm ngày nay,
người làm y học cổ truyền muốn có kiến thức toàn diện và phong phú cần chú ý thêm
đến các vấn đề mới có sau này.
Thưa các đồng nghiệp, thông qua các
quan điểm lớn và bài học lớn được rút ra từ bộ sách “Hải Thượng y tông tâm lĩnh’,
nhằm ôn lại thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Chúng ta -
các lớp hậu sinh theo nghề của y tổ - nguyện
cố gắng học tập, rèn luyện và cống hiến theo gương sáng của ông về y đức, y đạo,
y thuật; để góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân.
Dựa theo “HẢI
THƯỢNG Y TÔNG TÂM LĨNH” Tập I
Nhà xuất bản Y học – Hà Nội 1993
ĐỌC LÃN ÔNG TRONG ĐÊM XUÂN
Tĩnh lặng giao thừa đọc Lãn Ông
Từng trang lấp lánh nắng Y Tông…
Hiểu lòng nhân ái khinh quyền quý
Trọng đức vị tha giữ chí công
Diệu dược cứu sinh vang đất việt
Thần phương cải tử sáng trời Đông
Gương xưa thôi thúc người nay mãi
Tiếp bước quên mình chẳng quản công.
VÂN TRINH
Tĩnh lặng giao thừa đọc Lãn Ông
Từng trang lấp lánh nắng Y Tông…
Hiểu lòng nhân ái khinh quyền quý
Trọng đức vị tha giữ chí công
Diệu dược cứu sinh vang đất việt
Thần phương cải tử sáng trời Đông
Gương xưa thôi thúc người nay mãi
Tiếp bước quên mình chẳng quản công.
VÂN TRINH
NHỚ ƠN HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
(Họa: “Đọc Lãn Ông trong đêm xuân” )
Đọc trang sách cũ nhớ ơn ông
Hải Thượng tên Người sáng nghiệp tông
“Ậm án” răn đời không ngại tiếng
“Lương phương” cứu thế chẳng nài công
Lợi danh buông thả theo dòng nước
Đức độ lưu truyền vượt biển Đông
Rừng Hạnh mở đường con cháu bước
Y thư để lại thật kỳ công
QUỲNH HOA
Xem thêm: HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC
0 nhận xét: