CÂY DÂU ĐÂU CHỈ NUÔI TẰM

Bài đã đăng ở Tạp chí "Khoa Học và Sáng Tạo" tỉnh Quảng Nam tháng 03 năm 2009

         Cây dâu tằm (tên khoa học Morus alba L. Morus acidosa Griff, thuộc họ Dâu tằm Moraceae), được trồng chủ yếu để lấy lá cho tằm ăn, phục vụ cho nghề truyền thống “Trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa” có ở một số địa phương của Quảng Nam ta. Lá dâu còn có thể luộc hay nấu canh ăn, có tác dụng bổ dưỡng và chống say sóng khi đi tàu thuyền. Trong đông y, rất nhiều bộ phận từ cây dâu được sử dụng làm thuốc, chúng có những đặc tính dược lý và tác dụng chữa bệnh rất khác nhau. Bài viết này xin giới thiệu một số ứng dụng của các bộ phận liên quan đến cây dâu dùng làm thuốc:

more »

0 nhận xét:

THUỐC NAM CHỮA TĂNG HUYẾT ÁP

Bài ngắn hơn đã đăng ở Báo Quảng Nam Thứ 5 ngày 19 tháng 4 năm 2012 số 3249 (6471) (Ở đây)

        1-Tăng huyết áp là một bệnh thường gặp, là phổ biến nhất trong các bệnh tim mạch, ngày càng có xu thế gia tăng; nó được ví như "kẻ giết người" thầm lặng, nghĩa là không gây triệu chứng gì ồn ào, nhưng lại dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng vô cùng tai hại ảnh hưởng đến sức khỏe và nhiều khi là biến chứng chết người. Việc điều trị tăng huyết áp bằng thuốc y học cổ truyền hoặc các phương pháp không dùng thuốc theo y học cổ truyền đơn thuần hay kết hợp với thuốc tây có nhiều ưu điểm:
Ảnh: Internet
more »

2 nhận xét:

ĐÔNG Y VỚI BÉO PHÌ

Người phụ nữ (Donna)  nặng 273kg 


Donna (273kg) đang nuôi ý định vượt qua kỷ lục béo phì của Terri (317kg) 

Ảnh: 24h.com.vn

Bài đã đăng ở BẢN TIN Y DƯỢC QUẢNG NAM số 46 Quý II/2012
                                                                      
          Hiện nay tình hình thừa cân và béo phì đang tăng lên với tốc độ báo động không những ở các nước phát triển, mà ở cả các nước đang phát triển. Đây thật sự là mối đe dọa tiềm ẩn trong tương lai. Tại các nước đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, béo phì gặp nhiều ở thành phố hơn nông thôn.
Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khỏe. Hiện nay, thường dùng chỉ số khối cơ thể (Body mass index – viết tắc là BMI) để nhận định tình trạng gầy béo; công thức tính:  
                


W= Cân nặng (tính bằng kilogam), H: Chiều cao (tính bằng mét)
Nhẹ cân: BMI ít hơn 18,5; bình thường: BMI từ 18,5 đến 25; thừa cân BMI từ 25 đến 30; béo phì đội I: BMI từ 30 đến 35; béo phì độ II: BMI từ 35 đến 40; rất béo-cần giảm cân ngay: BMI trên 40. Người ta thường cho rằng chỉ số trên dành cho người Châu Âu và Châu Mỹ; còn người Châu Á, BMI bình thường có giới hạn từ 18,5 đến 23; BMI vượt quá 27,8 đối với nam và 27,3 đối với nữ được xác định là béo phì. Cân nặng là kết quả cân bằng giữa lượng năng lượng nhập vào từ thực phẩm và năng lượng xuất ra sử dụng cho các hoạt động hàng ngày của cơ thể. Nếu nhập nhiều hơn tiêu thụ, năng lượng dư thừa sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ. Ăn uống quá độ cộng với thiếu hoạt động là nguyên nhân chính dẫn đến béo phì, bên cạnh đó còn có nhiều yếu tố khác góp phần gây nên béo phì như: ngủ quá ít, môi trường bị ô nhiễm, một số rối loạn tâm lý gây ra ăn uống quá độ, phụ nữ sau mỗi lần có thai và sinh nở, dùng một số loại thuốc chữa bệnh, điều hòa không khí, yếu tố di truyền, bệnh tăng theo tuổi….
Béo phì thường không tốt đối với sức khỏe: gây mất thỏa mái trong cuộc sống; giảm hiệu suất lao động, kém lanh lợi; tỷ lệ bệnh tật cao: béo phì là yếu tố nguy cơ cao của các bệnh như: tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành, sỏi mật, bất thường mỡ trong máu, đột qụy, ngưng thở khi ngủ…; tỷ lệ tử vong cũng cao hơn. Thừa cân và béo phì còn làm giảm vẻ đẹp của mọi người. Có rất nhiều phương cách điều trị béo phì, điều kiện tiên quyết cho bất kỳ phương pháp điều trị nào, cần chỉ định và hỗ trợ sự thay đổi lối sống lối sống một cách tích cực, bao gồm chế độ ăn, hoạt động thể lực và các yếu tố hành vi.
Đối với người béo phì thì nên dựa vào chỉ số BMI mà quyết định lượng calo trong khẩu phần ăn hàng ngày của mình. Cụ thể: BMI từ 25-29,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal; BMI từ 30-34,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal; BMI từ 35-39,9 thì năng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal; BMI ≥ 40 thì năng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal. Ăn ít chất béo, bột; đủ chất đạm, vitamin, muối khoáng; tăng cường rau và hoa quả; tạo thói quen ăn uống theo đúng chế độ.
Đông y từ xưa đã ghi nhận về chứng béo phì (thuộc phạm trù chứng Phì bán bệnh) và phân hình thể con người làm 3 loại: phì, cao, nhục; và cho rằng phát sinh chứng béo phì là có liên quan với thấp, đàm, khí hư, huyết dịch hỗn trọc, lưu thông chậm. Nằm lâu, ngồi lâu, vận động quá ít khí hư tích tụ làm cho việc vận hóa bị ngăn trở, mỡ tích tụ lại gây nên béo phì; thất tình nội thương như vui quá, buồn quá, giận quá… làm can khí tụ lại, can đởm mất sự điều tiết không chỉ ảnh hưởng đến sự vận động của tỳ mà còn làm cho dịch mật không thể tiết ra thấm vào chất dinh dưỡng một cách bình thường, mỡ tích tụ lại bên trong gây nên béo phì. Đông y cho rằng, béo phì thường là bệnh trong hư ngoài thực; trong hư chủ yếu là khí hư. Bệnh ở các tạng phủ tỳ, can, đởm, phế và tâm. Trường hợp nhẹ, người bệnh sinh hoạt bình thường; trường hợp trung bình và nặng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, sợ nóng, ra mồ hôi nhiều, hoạt động nhiều thì tim hồi hộp khó thở, bụng đầy, lưng đau, táo bón, đau đầu chóng mặt, tình dục giảm sút, phụ nữ thường rối loạn kinh nguyệt…Tùy theo triệu chứng lâm sàng mà đông y chia béo phì ra các thể như: tỳ hư thấp trệ, vị thấp nhiệt, can khí uất kết, khí trệ huyết ứ, đàm trọc, tỳ thận dương hư; béo phì thường biểu hiện lâm sàng những hội chứng bệnh lý hư thực lẫn lộn, không hoàn toàn rành rọt là 6 thể trên, nên cần có sự linh hoạt trong biện chứng luận trị để đạt hiệu quả cao trong điều trị.
Khi điều trị béo phì bằng đông y cần tuân thủ 3 vấn đề cơ bản: (1) thay đổi thói quen ăn uống bằng thực đơn cụ thể; (2) thay đổi lối sống: vận động người bệnh đi bộ, tránh ngồi nhiều, tránh nằm nhiều….; (3) sử dụng các phương pháp điều trị của y học cổ truyền: cần phân biệt kỹ lưỡng từng thể loại bệnh để kết hợp điều trị cho thích hợp, điều trị theo nguyên tắc lấy lại cân bằng âm dương cho cơ thể. Trong thời gian điều trị cần chú ý một số điểm để đánh giá diễn tiến của phương pháp điều trị: ba tháng là một liệu trình, hết một liệu trình nếu trọng lượng cơ thể giảm được 3kg là có hiệu quả; sau một liệu trình nếu trọng lượng cơ thể giảm trên 5kg là có hiệu quả rõ; sau một liệu trình nếu trọng lượng cơ thể đạt đến trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn coi như là khỏi bệnh.
Đông y có nhiều phương pháp điều trị béo phì như: dùng thuốc, điện châm, cấy chỉ, nhĩ châm…. Từ lâu, rất nhiều người quan niệm rằng dùng thuốc đông y sợ mập (béo), đặc biệt người mập lại càng sợ dùng thuốc đông y, điều này hoàn toàn không có cơ sở, bởi không phải cứ thuốc bổ đông y là làm cho mọi người mập, chẳng hạn như thể tỳ thận dương hư của béo phì cần dùng thuốc bổ tỳ thận dương của đông y thì mới chữa được béo phì. Theo đông y, thuốc bổ (sẽ có bài riêng về Thuốc bổ của đông y) được chia làm 4 loại: bổ khí, bổ dương, bổ huyết, bổ âm; nguyên tắc đơn giản và thường dùng nhất là phần nào trong cơ thể (khí, huyết, âm, dương) hư suy, thì dùng loại thuốc bổ phần đó (bởi phần đó bị bệnh mới hư, cần phải điều trị bằng cách bổ phần hư đó); cho nên việc sử dụng các thuốc bổ của đông y phải tuân thủ đúng chỉ định, không được dùng bừa bãi với suy nghĩ: không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc!; việc sử dụng thuốc bổ nói riêng và thuốc đông y nói chung không đúng cách, không những không phát huy tác dụng của thuốc, mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí đe doạ tính mạng. Cho nên, việc dùng thuốc đông y cho người béo phì là điều rất bình thường như dùng trong các bệnh khác; vấn đề là các thầy thuốc phải khám kỹ lâm sàng xem người bệnh ở thể nào theo phân loại của đông y để dùng thuốc cho thích hợp, chứ không có gì mà người bệnh béo phì phải e ngại khi dùng thuốc đông y cả. Trong thời gian uống thuốc, cứ cách 1 tháng nên ngưng uống thuốc 3-5 ngày rồi lại tiếp tục.
Ngoài dùng thuốc các phương pháp không dùng thuốc như điện châm, nhĩ châm, cấy chỉ… cũng là những cách thức điều trị béo phì hiệu quả của đông y. Đặc biệt, phương pháp cấy chỉ có ưu điểm: có hiệu quả cao trong điều trị; người bệnh đỡ phải đi lại và không cần nằm viện, có thể điều trị ngoại trú tại nhà hoặc tại cơ sở y tế, một lần cấy chỉ mất khoảng 10-20 phút, khoảng cách giữa 2 lần điều trị thường là 10-20 ngày; không có tai biến nguy hiểm ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Cấy chỉ (chôn chỉ, xuyên chỉ, vùi chỉ vào huyệt) là một phương pháp chữa bệnh, phục hồi chức năng rất độc đáo, là thành quả kết hợp giữa đông y và tây y, trên cơ sở châm cứu của đông y. Chỉ catgut là loại chỉ dùng trong phẫu thuật, có khả năng tự tiêu sau một thời gian nhất định. Dùng dụng cụ chôn chỉ catgut vào huyệt vị, sự tồn lưu của chỉ tại huyệt trong một thời gian nhất định đã phát huy vai trò khich thích huyệt đạo nhằm tạo được sự cân bằng âm dương, điều chỉnh chức năng tạng phủ, hành khí hoạt huyết, khai uất trệ, giảm đau…Cấy chỉ còn ứng dụng chữa nhiều loại bệnh khác như: hen phế quản, một số bệnh cơ xương khớp (viêm khớp dạng thấp, đau lưng, đau thần kinh tọa…), viêm oét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn tính, di chứng liệt (nữa người, 2 chân, tứ chi …), đau đầu kinh niên …
Một số cách dân gian đơn giản giảm béo phì: (1) lá sen sắc uống hoặc sắc đặc lấy nước nấu cháo. (2) thường xuyên ăn bí đao, nấu canh hoặc kho, xào. (3) lá chè đun sôi làm nước trà đậm uống hàng ngày. (4) thường xuyên ăn củ cải sống. (5) râu bắp (ngô) lượng vừa đủ, hãm nước sôi uống thay nước trà. (6) củ mài nấu cháo ăn. (7) một trái thị xanh, 30g cành dâu, sắc nước uống 1 ngày. (8) lá mã đề, hạ khô thỏa đều 30g, lá liễu 10 sắc uống trong 1 ngày. (9) rong biển 100g, đậu xanh 100g, cả hai thứ nấu canh, cho gia vị vừa đủ, ăn ngày 1 lần. (10) gạo tẻ 50g, bí rợ 150g, đậu xanh 50g, nấu nhừ ăn ngày 1 lần. (11) gạo tẻ 100g, hạt bo bo (ý dĩ) 30g, hạt sen 20g, nấu cháo ăn ngày 2 lần. (12) lá sen tươi 1 lá xắt vụn, gạo tẻ 100g, đậu xanh 100g, nấu cháo ăn trong 1 ngày, nếu không có lá sen tươi, dùng lá sen khô cũng được, nhưng trước khi dùng phải ngâm nước cho mềm. (13) sơn tra tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày uống 3 lần; hoặc dùng 18g bột sơn tra, sắc uống như nước trà trong ngày. (14) hoa mồng gà (kê quan hoa) 30g, hạt dành dành (chi tử) 15g, hạt bo bo 30g sắc uống trong 1 ngày.

                                             LÊ THÂN (Tổng hợp)



3 nhận xét:

DÀNH CHO DÂN DUY PHƯỚC

Bài trên Báo Quảng Nam số 3546 (6768) Thứ Hai ngày 8.4.2013 của MAI NHI- PHI THÀNH (Tại đây)

0 nhận xét:

ĐẮP THUỐC LÊN RỐN CÁCH CHỮA BỆNH ĐỘC ĐÁO CỦA ĐÔNG Y

Bài ngắn hơn đăng ở Báo Quảng Nam số 3543 (6765) ngày 4.4.2013 (Tại đây)


Trong cơ thể người ta, rốn có vị trí đặc biệt quan trọng. Y học cổ truyền không những xem rốn là nguồn gốc của sự sống đầu tiên khi hình thành con người (tiên thiên chi bản nguyên), mà còn là cuống rễ của sự sống sau khi ra đời (hậu thiên chi căn đế) và là nguồn gốc của sinh mệnh. Trong châm cứu, chính giữa rốn gọi là huyệt thần khuyết (còn có tên là huyệt khí xá); trong tất cả các sách giáo khoa của đông y khi nói đến huyệt thần khuyết đều ghi rõ: Cấm châm. Đắp thuốc lên rốn để chữa bệnh là một phương cách độc đáo của y học cổ truyền, Danh y Ngô Sư Cơ (Trung Quốc) cho rằng: “Đắp thuốc lên rốn chẳng khác là uống thuốc qua miệng”.
more »

0 nhận xét: